Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Thăm thành cổ Vinh

Thành cổ Vinh, còn gọi là thành Nghệ An, thuộc  thành phố Vinh. Thành được xây từ năm 1804 đời vua Gia Long, ban đầu thành xây bằng đất. Đến đời vua Minh Mạng, năm 1831 thành được xây bằng đá ong với quy mô to lớn, kiên cố hơn. Thành có 6 cạnh, 6 góc, chu vi khoảng 2.520m. Trên mặt thành có bố trí các công trình quân sự chiến đấu.

Sử sách ghi rằng, chiếm được Phú Xuân (năm 1802), Nguyễn Vương (1762-1820) lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Sau khi lên ngôi vị vua này đưa quân tiến ra đất Bắc. Ðến tháng 6 cùng năm, vua Gia Long thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.

Năm 1803, Gia Long ra Bắc, chọn làng Vĩnh Yên (Khu vực Thành cổ bây giờ) nằm phía Tây Bắc núi Dũng Quyết (P.Trung Đô, TP Vinh ngày nay) để xây thành Nghệ An bằng đất. Khi vua Gia Long băng hà, Nguyễn Phúc Đảm (con thứ 4 của vua Gia Long) lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng (1791-1840) mới cho xây lại thành Nghệ An bằng đá ong theo kiểu Vô-băng.

Khi “phục dựng” lại Thành, vua Minh Mạng đã huy động tổng lực nhiều sức dân và sức của. Sách ghi: Thành có 6 cạnh, chu vi dài 603 trượng (2.412m), cao 1 trượng, 1 tấc, 5 thước (4,42m), diện tích 420 nghìn m2; bao quanh Thành là hệ thống hào (gọi là Hồ Thành) rộng 7 trượng (28m), sâu 8 thước ta (3,2m). Ngay từ lúc khởi công, Triều đình nhà Nguyễn đã huy động 1.000 lính Thanh Hoá, 4.000 lính Nghệ An. Đến thời vua Tự Đức (1829-1883), để tiếp tục nâng cấp triều đình đã phải sử dụng 8.599 phiến đá sò từ Diễn Châu (cách Vinh gần 50 cây số) và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía. Tổng kinh phí hoàn thành là 3.688 quan tiền - một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ.

Việc chọn đất và hướng xây thành là dựa trên thuyết phong thủy phương Đông. Phía đông nam thành là dãy núi Hồng Lĩnh gắn liền với huyền thoại 100 con chim phượng hoàng đi tìm tổ ấm, phía tây thành là dãy Thiên Nhẫn với 1.000 đỉnh, phía trước mặt có dãy Lam Thành với ba ngọn Triều Khẩu, Phượng Hoàng, Nghĩa Liệt đứng kề ngã ba Tam Chế của sông Lam, làm tiền án, ngay phía trước mặt là sông Cồn Mộc quanh co đổ ra ngã ba Hạc làm tiền thủy.

Thành có tường cao 4,8m bao xung quanh có hào sâu và rộng. Lúc khởi công, triều đình nhà Nguyễn đã huy động 1.000 lính Thanh Hoá, 4.000 lính Nghệ An. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp phải lấy 8.599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền - một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ. Thành Vinh có 3 cửa ra vào: cửa Tiền, cửa Tả, cửa Hữu, không có cửa Hậu.

Cửa Tiền là cửa chính hướng về phía nam, cửa để vua ngự giá, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào. Cửa Tả hướng về phía đông, cửa Hữu hướng về phía tây. Muốn đi qua các cửa đều phải qua một cái cầu. Bên trong, công trình lớn nhất là hành cung, phía đông hành cung có dinh thống đốc, phía nam có dinh bố chánh, án sát, dinh lãnh binh, dinh đốc học, phía bắc có trại lính và nhà ngục. Sau này phía tây có nhà giám binh người Pháp. Toàn bộ thành được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc.

Thành Vinh có hào rộng 28m, sâu 3,2m, mênh mông với mặt nước trong xanh, hai bên bờ hào được ghép đá để chống xói lở, trong hào thành người dân thả sen để hàng năm cống nạp triều đình. Hệ thống hào của thành Vinh được nối liền với sông Vĩnh (sông Cửa Tiền) bằng một con ngòi rộng 2m, sâu 1,6m, đáy rộng 1,2m. Hào được đào sát phía ngoài thành để lấy đất đắp lũy bờ thành, đồng thời làm thành hệ thống bảo vệ bên ngoài để tăng thêm sự khó khăn cho đối phương khi tấn công.

Thành Vinh ra đời nhằm tạo ra một trung tâm chính trị, quân sự, vừa là một công trình phòng thủ của tỉnh Nghệ An nhưng chế độ phong kiến nhà Nguyễn đang trên con đường suy vong nên thành Vinh chưa phát huy được vai trò tích cực theo ý đồ thiết kế mà sớm thành trung tâm chống đối lại các phong trào yêu nước, đã trở thành chứng tích của một thời kỳ bi thương mà hào hùng của nhân dân Nghệ An.

Sau khi thành Vinh xây dựng được một thời gian ngắn, vào năm 1818, một thủ lĩnh là Hầu Tạo đã đưa nghĩa quân tiến vào trong thành làm cho tầng lớp thống trị hoảng sợ. Năm 1858, trước họa xâm lăng của thực dân Pháp, thành Vinh được tổng đốc Võ Trọng Bình củng cố sẵn sàng chống lại quân xâm lược Pháp nhưng triều đình nhà Nguyễn theo đối sách chủ hòa, ra lệnh điều Võ Trọng Bình đi nơi khác. Tháng 7-1885, quân Pháp do viên đại tá Bô Mông chỉ huy đến đánh, sau mấy phát đại bác uy hiếp, thành Vinh dễ dàng rơi vào tay thực dân Pháp.

Đêm ngày 5-2-1918, bà Nguyễn Thị Thanh (chị cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh) phối hợp với Nguyễn Kiên (một sĩ quan của lữ đoàn lính khố xanh đã được giải ngũ) bí mật vào doanh trại lính khố xanh đóng trong thành lấy trộm vũ khí để tiếp tế cho nghĩa quân Đội Quyên, Đội Phấn đang đóng ở Thanh Chương và Tân Kỳ. Việc bị bại lộ, bà Thanh và Nguyễn Kiên đều bị thực dân Pháp bắt. Trong phiên tòa xử tại Vinh, Nguyễn Kiên, Ngô Thuần, Lê Bân bị án chém ngay, bà Nguyễn Thị Thanh phải chịu án đánh 100 roi, tù khổ sai 9 năm, đày vào giam tại nhà lao tỉnh Quảng Ngãi.

Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thành Vinh, nơi có nhà lao Vinh, lại chứng kiến sự đấu tranh kiên cường, bất khuất của hàng trăm chiến sĩ cộng sản và sự đàn áp tàn bạo của thực dân Pháp.

Tối ngày 13-1-1941, Đội Cung xuất phát từ đồn Rạng, Thanh Chương kéo quân lên tiến công và chiếm được đồn giặc Pháp ở Đô Lương, rồi tổ chức lực lượng tiến thẳng về Vinh, tiến công vào doanh trại lính Pháp đang đóng trong thành Vinh. Nhưng việc không thành, thành Vinh lại chứng kiến sự hy sinh anh dũng của Đội Cung và cộng sự. Và ngày 20-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Nghệ An, quân và dân địa phương đã ồ ạt tiến công vào giải phóng thành Vinh...

Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, sự phá hoại của chiến tranh, di tích thành Vinh hầu như là phế tích, chỉ còn lại 3 cổng thành và khu hồ bao quanh. Gần đây thành cổ Vinh đang được tu tạo lại để xứng đáng với vị thế lịch sử của mình và trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn du khách.

Du lịch, GO! tổng hợp từ báo Quảng Ninh và nhiều nguồn khác

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét